Thời
đại trị vì của bà được gọi là Thời đại Catherine, được xem là thời đại hoàng kim của Đế quốc Nga, đặc biệt là đối với giai cấp quý tộc Nga. Bà tích
cực hỗ trợ cho ý tưởng Thời kỳ Khai sáng, tạo nên giai đoạn Chủ nghĩa
khai sáng ở Nga.
1. Tiểu sử
Ekaterina II,
Yekaterina Alexeyevna hoặc còn gọi là Catherine Đại đế, là Nữ hoàng trứ
danh và cũng là Nữ hoàng trị vì lâu dài nhất của Đế quốc Nga, cai trị từ 28 tháng 6 năm 1762 cho tới khi qua
đời 1796 (34 năm). Có thể nói bà là hiện thân của chế độ quân chủ chuyên chế Nga hoàng,
tuy là người Phổ, sinh tại Stettin ở Phổ với
tên gốc là Sophie Friederike Auguste von Anhalt-Zerbst-Dornburg nhưng
bà có đóng góp to lớn trong việc đưa Đế quốc Nga thực sự trở thành một cường quốc tại châu Âu vào thế kỷ 18.
Catherine Đại đế |
2. Gia đình
Nữ
hoàng có tên khai sinh là Sophie Friederike Auguste von
Anhalt-Zerbst-Dornburg, xuất thân từ một gia đình quý tộc Phổ. Thân phụ
là Christian August, Vương công xứ Anhalt-Zerbst. Ông phục vụ triều
đình Phổ và được phái làm Toàn quyền xứ Stettin (nay là Szczecin , Ba Lan). Sophie chào đời tại Stettin vào ngày 21 tháng 4 năm 1729. Bởi những toan
tính ngoại giao chiến lược, khi mới 14 tuổi, Sophie đã bị sắp đặt sẽ cưới Thái
tử của nước Nga. Năm 1744, Sophie tới Sankt Peterburg. Cùng năm, bà cải đạo
sang Chính Thống giáo Nga. Với tôn giáo mới, bà có tên mới
là Ekaterina.
Năm
1761, Nữ hoàng Elizaveta qua đời. Pyotr III lên kế ngôi, còn Ekaterina trở
thành Hoàng hậu nước Nga. Pyotr III nguyên là Hoàng tử Karl Peter Ulrich, con
trai của Công tước người Đức Charles Frederick và Anna
Petrovna (con gái đầu của Pyotr Đại đế và Nữ
hoàng Ekaterina I). Từ nhỏ đến năm 14 tuổi, Karl sống trong Hoàng cung nước
Phổ dưới triều vua Friedrich II Đại Đế. Năm 1742 được Nữ
hoàng Elizaveta đưa trở về Nga, nhưng không thích cuộc sống nước Nga,
khinh bỉ mọi thứ của nước Nga và chỉ tôn thờ nhà vua nước Phổ. Sofie, vợ ông
thì ngược lại. Tuy xuất thân là một Quận chúa người Đức bà lại rất quan tâm tới
nước Nga, nền văn hóa Nga và phong tục tập quán của nước Nga.
Catherine khi vừa đến Nga (tranh vẽ bởi Louis Caravaque) |
3. Sự nghiệp
3.1. Đối nội
Trong
những năm đầu trị vì nước Nga, Nữ hoàng Ekaterina II muốn được tôn vinh làm Nữ
hoàng khai sáng cho đất nước. Về đối nội, bà lấy chính sách ngu dân để
trị nước, trong ý nghĩ luôn khẳng định rằng nô lệ và đầy tớ tồn tại từ thở khai
thiên lập địa, song bề ngoài tỏ ra là người chủ trương nâng cao dân trí cho nước
nhà. Đó là việc Nữ hoàng mời nhà triết học người Pháp Denis
Diderot (1713-1784), người sáng lập Bộ bách khoa toàn thư các ngành
khoa học, nghệ thuật và các nghề thủ công sang Sankt-Peterburg để xuất bản
cuốn Bách khoa toàn thư; trao đổi thư từ với nhà văn, nhà khai
sáng Pháp Voltaire (1694-1778), được nhà triết học này mệnh danh
là "Semiramis của phương Bắc". Bà cũng say mê đọc các tác
phẩm của Montesquieu (1689-1775)... Ý tưởng khai sáng của các nhà tư
tưởng Pháp được Nữ hoàng lý giải theo cách riêng của mình, lại cố tìm trong các
tác phẩm của họ những điều có thể biện minh cho chế độ chuyên chế và chế độ
nông nô đang tồn tại ở nước Nga bấy giờ.
Ekaterina
II công khai thi hành chính sách củng cổ trật tự nhà nước phong kiến. Các
tạp chí của nhà khai sáng Nga Nikolay Ivanovich Novikov (1744-1818) bị
cấm vĩnh viễn năm 1773. Mùa thu năm đó, Diderot đến kinh đô Sankt-Peterburg
cũng không thỏa thuận được với Nữ hoàng về việc xuất bản bộ Bách khoa toàn
thư.
Năm 1789 cuộc Đại
cách mạng Pháp nổ ra, và vua Louis XVI bị chém đầu năm 1793. Pháp được
công bố là nước cộng hòa, chế độ phong kiến sụp đổ. Ảnh hưởng của
cuộc Đại cách mạng Pháp như một làn gió tràn vào nước Nga im lìm sau khi nghĩa
quân Pugatsov bị đàn áp. Viên sĩ quan S.N. Glinka dịch bài ca cách mạng La
Marseillaise ra tiếng Nga. Nhà văn Ia. B. Kniazhnin viết vở bi
kịch Vadim Novgrodski kêu gọi lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế
và thiết lập nền cộng hòa. Là người kinh bang kế thế nhưng lúc này Ekaterina II
cảm thấy lo sợ trước nguy cơ nổi loạn. Với bên ngoài, Ekaterina II kêu gọi các
vua chúa châu Âu ủng hộ để giải phóng nước Pháp thoát khỏi "những
tên cướp" và khôi phục chế độ quân chủ; bên trong thì ra sức đàn áp hòng dập
tắt mầm móng khởi nghĩa: giam cầm Novikov ở pháo đài Shlisselburgskaia còn nhà
văn Kniazhnin bị bỏ tù và mất trong ngục năm 1790.
Ekaterina II trong trang phục sĩ quan |
3.2. Đối ngoại
Nếu
trong lĩnh vực đối nội, Ekaterina không hoàn toàn thực hiện được những mong muốn
của mình, thì trong lĩnh vực đối ngoại bà đã làm được nhiều thành tích hơn. Những
sự thành công này một phần nhờ vào tài năng và sự lãnh đạo của Ekaterina, một
phần cũng nhờ vào việc Ekaterina đã tập hợp được những cận thần xuất sắc và tài
ba.[8] Đế
quốc Nga dưới thời Ekatêrina II đã thực hiện nhiều hoạt động bành trướng lãnh
thổ và thôn tính được các khu vực Bắc ven biển Đen,
Krym, Bắc Kavkaz, vùng lãnh thổ phía Tây Ukraina, Bạch Nga, Litva với tổng diện
tích lên tới 518 nghìn cây số vuông (20 vạn dặm vuông).
Rõ ràng
việc củng cố chế độ quân chủ chuyên chế là quốc sách đối nội đầu
tiên của Ekaterina II. Trong chính sách bang giao với các nước châu Âu,
Ekaterina II cũng đặt mục đích củng cố Đế quốc Nga trên vũ đài chính trị châu
lục này, nhất là trong tình hình các cường quốc châu Âu có thuộc địa ở Nam Á và Đông Nam Á đang phát huy ảnh hưởng của mình, và Ekaterina
II và triều đình Nga cảm thấy lo ngại trước tình thế lúc bấy giờ đối với nước
Nga chưa có hải quân ở Kamchatka và cảng trên
bờ biển Okhotsk Thái Bình Dương. Nhìn chung tất cả những chính
sách đối ngoại của Ekaterina hoàn toàn nhằm mục đích phục vụ cho cái mà bà coi
là quyền lợi của nước Nga, và gốc tích dân tộc Đức dường không có ảnh hưởng gì
đến quyết sách của nữ Nga hoàng[9].
Từ sau
khi hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Mông Cổ, nước Nga phải đối phó với ba đối
thủ chính trên lĩnh vực đối ngoại: đế quốc Ottoman, Vương quốc Ba Lan và
Vương quốc Thụy Điển. Thụy Điển đã suy yếu sau khi bị Pyotr I đánh bại
trong cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm và không còn là vật cản trên con đường
bành trướng của Nga nữa. Ba Lan cũng bị những mâu thuẫn nội bộ xâu xé và hoàn
toàn nằm dưới sự bảo hộ của Nga từ thời Pyotr I. Chính sách của Nga đối với Ba
Lan là duy trì một quốc gia Ba Lan nguyên vẹn nằm dưới tầm ảnh hưởng của Nga,
mưu dùng Ba Lan làm một nước đệm ngăn cách Nga với các cường quốc châu Âu. Tuy
nhiên, đổi lại Nga phải chấp nhận từ bỏ việc bành trướng sang phía Tây, điều mà
Đại đế Ekaterina II ít mong muốn nhất.
Tranh vẽ Nữ hoàng Catherine vào năm 1770 |
4. Đánh giá
Nữ
hoàng Ekaterina II bị chỉ trích là rất phóng đãng trong cuộc sống riêng tư. Thậm
chí, các nhà cách mạng Jacobin đã gọi bà là "Hoàng hậu Messalina của phương Bắc", ví bà
với người vợ khét tiếng dâm đãng của Hoàng đế Claudius vào
thời La Mã cổ đại. Quả thực từ khi lấy chồng năm 15 tuổi cho đến
lúc qua đời ở tuổi 67, Ekaterina có rất nhiều người tình, từ những đại quý tộc
tài năng quyền cao chức trọng như Công tước Saltykov, Tư lệnh Grigori Ooclop,
Phó vương Krym Patyómkin cho đến những kẻ bất tài và có cuộc sống riêng tư rất
đáng ngờ như Zavadovski (một cậu tình nhân rất trẻ), Zorick, Mamonov, Yermolof, Arkarov (một tên gián điệp), Landskov (một họa sĩ), Công tước Platon
Alexandrovich Zubov (trẻ hơn bà tới gần 40 tuổi)…
Nữ
hoàng Ekaterina II là hiện thân của đế quốc Nga quân chủ chuyên chế. Nhưng
bên cạnh đó, hơn 30 năm trị vì của bà đã đưa Đế quốc Nga tiến lên một bước để trở thành cường quốc thực
sự sánh vai với các cường quốc khác ở châu Âu cuối thế kỷ 18.
Là nhà
hoạt động nhà nước cơ mưu, Ekaterina II biết nhìn nhận nước Nga trong mối tương
quan ở khu vực châu Âu và toàn cầu. Bà là một trong những vị Quân vương vĩ đại
nhất và thành công nhất của châu Âu vào thế kỷ XVIII. Nhưng mặt khác, xét
trên bình diện phản tiến bộ, Ekaterina đã lợi dụng trí tuệ và nền văn minh thế
kỷ Khai sáng ở Tây Âu để
trị quốc, trấn áp những phong trào quần chúng và khởi nghĩa nông dân, bóp nghẹt
các lực lượng tri thức chủ trương lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế theo
gương Cách mạng tư sản Pháp năm 1789.
Tranh vẽ Catherine năm 1787 (bởi Mikhail Shibanov) |