Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ lúc mở đầu (1416) cho tới
khi kết thúc thắng lợi (tháng 12-1427), trải qua các giai đoạn phát triển và chiến
lược, chiến thuật của nó đã chứng minh Lê Lợi là người có tầm vóc của một thiên
tài, một nhân cách vĩ đại, chỉ thấy ở những lãnh tụ mở đường, khai sáng. Ông là
một trong 14 vị anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam .
1.
Tiểu sử
Lê Lợi sinh vào giờ tý ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu
(1385), tức ngày 10 tháng 9 năm 1385, niên hiệu Xương Phù
năm thứ 9 đời nhà Trần tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay thuộc huyện Thọ Xuân,
Thanh Hóa và mất vào ngày 5 tháng 9, 1433. Ông là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Hậu Lê – triều đại lâu dài nhất
trong lịch sử Việt Nam.
Ông trị vì từ năm 1428 đến khi qua đời, và sử dụng niên hiệu Thuận
Thiên.
Lê Lợi (1385 - 1433) |
2.
Gia đình
Cụ tổ của Lê Lợi là Lê Hối, có lần đến Lam Sơn, sách Đại Việt thông sử đã chép rằng:
''Đã trông thấy đàn chim bay
lượn quanh chân núi, giống như cảnh đông người tụ hội''. Lê Hối cho là đất tốt
và chuyển nhà đến ở đấy. Sau 3 năm thì thành sản nghiệp. Từ đó, các thế hệ họ
Lê thay nhau làm quân trưởng ở Thanh Hóa.
Lê Hối sinh ra Lê Thinh, nối được nghiệp
nhà, có tới hơn 1000 tôi tớ, lấy vợ là Nguyễn Thị Quách, sinh được hai người
con trai, con trưởng là Lê Tòng, con thứ là Lê Khoáng.
Lê Khoáng lấy Trịnh Thị Ngọc Thương (Chủ
Sơn nay là Thủy Chú). Bà Trịnh Thị Ngọc Thương là con gái của viên Đại toát hữu,
một chức tướng quân thời Trần. Hai ông bà ở làng Lam Sơn thì các tù trưởng người
Ai Lao kéo đến cướp phá, hai cụ chuyển tới Thủy Chú, sinh ra Lê Học, Lê Trừ và
Lê Lợi, lại sinh ba người con gái là quốc thái trưởng công chúa Ngọc Tá, quốc
trưởng công chúa Ngọc Vĩnh và quốc trưởng công chúa Ngọc Tiên.
Lê Lợi là con út của Lê Khoáng nhưng được nối nghiệp
cha làm chúa trại Lam Sơn.
Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người "thiên
tư tuấn tú khác thường'', khi lớn lên, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng
rộng, mũi cao, trên vai có bảy nốt ruồi, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng,
nhịp bước như hồ". Lúc vua chưa sinh ra, có một cây quế, dưới cây
quế có một con hùm xám thường xuất hiện, nó hiền lành và thân cận với người
chưa từng hại ai. Từ khi vua ra đời con hùm xám không còn ai nhìn thấy nữa. Vào
ngày vua sinh có hòa quang đỏ chiếu sáng rực và mùi thơm ngào ngạt khắp làng.
Lê Thái Tổ |
3.
Sự nghiệp
Khi quân Minh chiếm đất nước, ông nuôi chí lớn đánh đuổi xâm lăng.
Quân nhà Minh nghe tiếng ông, dụ cho làm quan, ông không chịu khuất phục. Ông
nói: "Làm trai nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chớ
sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người?". Năm Lê Lợi 21 tuổi cũng là năm nhà
Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược nước Đại Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của
vương triều Hồ thất bại, nước Đại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc
Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một
quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi.
Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng
với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên
quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách.
Tin Lê Lợi dựng cờ nghĩa, chiêu mộ hiền tài bay xa, thu hút các
anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo về. Đất Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa, ở
đó có đủ các tầng lớp xã hội và thành phần dân tộc khác nhau với những đại biểu
ưu tú như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lê Lai, Cầm
Quý, Xa Khả Tham... Sau một thời gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi
xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên
đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ mở đầu (1416) tới khi kết thúc thắng lợi
(tháng 12-1427), qua các giai đoạn phát triển và chiến lược, chiến thuật của nó
đã chứng minh Lê Lợi là người có tầm vóc của một thiên tài, một nhân cách vĩ đại,
chỉ thấy ở những lãnh tụ mở đường, khai sáng. Nếu Ngô Quyền với chiến thắng
trên sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1.000 năm mất nước, mở đầu thời
kỳ độc lập mới của dân tộc thì Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, kết
thúc 20 năm thống trị của giặc Minh, khôi phục nền độc lập lâu dài cho Tổ quốc,
bắt đầu một kỷ nguyên xây dựng mới. Không có Lê Lợi, không có phong trào khởi
nghĩa Lam Sơn. Nhưng Lê Lợi không chỉ là người nhen nhóm, tạo lập ra tổ chức khởi
nghĩa Lam Sơn mà ông còn là nhà chỉ đạo chiến lược kiệt xuất. Một nét đặc sắc,
mới mẻ trong đường lối chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Minh mà Lê Lợi thực hiện
là dựa vào nhân dân để tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhìn vào lực
lượng nghĩa binh và bộ chỉ huy, tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa, có thể thấy rõ
tính chất nhân dân rộng rãi của nó, một đặc điểm nổi bật không có ở các cuộc khởi
nghĩa khác chống Minh trước đó. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết, tập hợp
mọi lực lượng xã hội trong một tổ chức chiến đấu, rồi từ cuộc khởi nghĩa ở một
địa phương, lấy núi rừng làm căn cứ địa, phát triển sâu rộng thành cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc trên quy mô toàn quốc. Đây là một cống hiến sáng tạo
to lớn về đường lối chiến tranh của Lê Lợi và bộ tham mưu của ông, để lại một
kinh nghiệm lịch sử quý giá.
Vừa là nhà tổ chức và chỉ đạo chiến lược về chính trị, quân sự, vừa
là vị tướng cầm quân mưu trí, quả quyết, Lê Lợi đã vận dụng lối đánh "vây
thành diệt viện" theo lý thuyết quân sự ông nghiền ngẫm: Đánh thành là hạ
sách. Ta đánh thành kiên cố hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức mỏi,
khí nhụt, nếu viện binh giặc lại đến thì ta đằng trước, đằng sau đều bị giặc
đánh, đó là đường nguy. Chi bằng nuôi sức khỏe, chứa khí hăng để đợi quân cứu
viện tới. Khi viện binh bị phá thì thành tất phải hàng". Chiến thuật
"vây thành diệt viện" của Lê Lợi kết hợp với chủ trương "mưu phạt
nhị tâm công", uy hiếp, phân hóa, chiêu dụ địch của Nguyễn Trãi tạo nên một
phương thức độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Cuộc vây hãm Vương Thông ở Đông Quan và tiêu diệt viện binh giặc tại
Chi Lăng, Xương Giang cuối năm 1427 là kết quả thắng lợi của tư tưởng quân sự của
Lê Lợi - Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi hết giặc Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng
đế năm 1428, sáng lập ra vương triều Lê. Lê Lợi làm vua được 5 năm thì mất
(1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước buổi đầu của vương triều Lê, Lê
Lợi đã có những cố gắng không nhỏ về nội trị, ngoại giao, nhằm phục hồi, củng cố,
phát triển đất nước trên mọi mặt, như tổ chức lại bộ máy chính quyền từ trung
ương xuống địa phương; ban hành một số chính sách kèm theo những biện pháp có
hiệu quả để khôi phục sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống xã hội. Lê Lợi
cũng chú ý tới việc phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo nhân tài. Năm 1428,
lên ngôi vua, năm sau (niên hiệu Thuận Thiên thứ 2, 1429), Lê Lợi đã cho mở
khoa thi Minh Kinh. Năm 1431, thi khoa Hoành từ. Năm 1433, Lê Lợi đích thân ra
thi văn sách. Đấy là chưa kể năm 1426 trong khi đang vây đánh Đông Quan, Lê Lợi
đã mở một khoa thi đặc cách lấy đỗ 32 người, trong đó có Đào Công Soạn, một nhà
ngoại giao xuất sắc thời Lê Lợi. Nhưng, nhiệm vụ chính trị lớn nhất phải quan
tâm giải quyết hàng đầu sau khi đất nước được giải phóng là việc tăng cường củng
cố, giữ vững nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Về phương diện này, Lê Lợi đã
làm được hai việc có ý nghĩa lịch sử. Thứ nhất, ông đã thành công trong cuộc đấu
tranh ngoại giao, thiết lập quan hệ bình thường giữa triều Lê và triều Minh. Thứ
hai, Lê Lợi đã kiên quyết đập tan những âm mưu và hành động bạo loạn muốn cát cứ
của một số ngụy quân trước, điển hình là vụ Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, Lai Châu.
Trong bài thơ làm khắc vào vách đá núi Pú Huổi Chò (bên sông Đà, thuộc Lai
Châu) năm 1431 khi đánh Đèo Cát Hãn, Lê Lợi đã nói rõ ý chí bảo vệ sự thống nhất
giang sơn:
Đất hiểm trở từ nay không còn,
Núi sông đã vào chung một bản đồ.
Đề thơ khắc vào núi đá
Trấn giữ miền Tây của nước Việt ta.
Sau bài thơ trên, Lê Lợi còn viết bài thơ thứ hai khắc vào vách
núi Hào Tráng bên Chợ Bờ, Hòa Bình.
Lê Lợi trong 5 năm làm vua, có những công lao to lớn. Đại Việt sử
ký toàn thư viết: "Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 20
năm mà thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, định luật lệ, chế lễ nhạc, mở khoa
thi, đặt cấm vệ, lập quan chức, lập phủ huyện, thu góp sách vở, mở trường học,
có thể gọi là có mưu lớn, sáng nghiệp.".
Lê Thái Tổ trả lại thanh bảo kiếm cho thần Kim-Quy tại hồ Hoàn Kiếm sau khi chiến thắng quân Minh |
4.
Di sản
Giữa Lê Thái Tổ và Hán Cao Tổ của
Trung Quốc có những điểm tương đồng trong thân thế, cuộc đời sự nghiệp bản thân
và sự nghiệp của hậu duệ:
- Cả Lê Thái Tổ và Hán Cao Tổ đều xuất
thân từ gia đình nông dân và là con thứ ba trong nhà. Trên Lê Lợi có Lê Học, Lê
Trừ còn trên Lưu Bang có Lưu Bá, Lưu Trọng.
- Cuộc khởi nghĩa của cả hai vị vua đều
gặp rất nhiều khó khăn trong thời gian đầu tiên, phải thường xuyên lẩn trốn sự
truy kích của kẻ thù, thậm chí có những lúc rơi vào tính thế hiểm nghèo.
- Cả hai vị vua đều thoát chết nhờ thuộc
hạ tình nguyện hy sinh cứu chủ. Khi bị Hạng Vũ vây
ở Huỳnh Dương, Lưu Bang đã phải nhờ Kỷ Tín ra
hàng và bị Hạng Vũ giết. Lê Lợi bị quân Minh vây ở núi Chí Linh cũng phải nhờ Lê Lai theo
gương Kỷ Tín để thoát nạn. Lê Lai cũng bị quân Minh giết.
- Sau khi lên ngôi, hai vị hoàng đế đều
giết các công thần khai quốc. Lưu Bang giết Hàn Tín, Bành Việt;
Lê Lợi giết Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn.
- Sau khi qua đời, cả Lê Thái Tổ và Hán
Cao Tổ đều được đặt chữ "Cao". Lưu Bang là (Cao Tổ) Cao hoàng đế,
Lê Lợi là (Thái Tổ) Cao hoàng đế.
- Về sau, cơ nghiệp của hai vị vua đều
bị họ khác cướp ngôi. Nhà Hán và
nhà Hậu Lê đều bị gián đoạn một thời gian, nhưng rồi lại phục
hồi. Nhà Tây Hán bị Vương Mãng cướp ngôi (lập nhà Tân),
nhưng sau đó được nhà Đông Hán kế
tục. Nhà Hậu Lê (Lê sơ) bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi (lập nhà Mạc),
rồi sau đó được nhà Lê trung hưng kế tục.
Khi ngự phê sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
vua Tự Đức nhà Nguyễn cũng
đánh giá Lê Lợi "mở được nền chính thống nghìn năm, thật đáng là bậc
nối gót Hán Cao Tổ". Sử quan nhà Nguyễn trong lời cẩn án dưới lời
phê của Tự Đức còn nêu thêm một điểm giống nhau nữa giữa Lê Thái Tổ và Hán Cao
Tổ: hai người cùng dấy binh nổi lên với một thanh kiếm.
Tượng đài Lê Lợi tại Thành phố Thanh Hóa |