Wednesday, July 12, 2017

Quốc Tổ Hùng Vương

Giỗ tổ Hùng Vương hay còn gọi là lễ hội Đền Hùng là dịp lễ quốc gia nhằm tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn của con cháu Đại Việt trước công lao dựng nước của các vua Hùng. Cứ vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch là người người lại nô nức hướng về Đền Hùng để dâng lễ, thắp hương, bày tỏ lòng thành kính và tưởng nhớ về cội nguồn dân tộc. 

1. Tiểu sử

Hùng Vương, là cách gọi các vị vua nước Văn Lang của người Lạc Việt. Hùng Vương thứ I là con trai của Lạc Long Quân, lên ngôi vào năm 2879 trước công nguyên, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước làm 15 bộ, truyền đời đến năm 258 trước công nguyên thì bị Thục Phán (An Dương Vương) chiếm mất nước.
Quốc Tổ Hùng Vương
2. Gia đình
Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Lộc Tục cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi (anh trai Lộc Tục) là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ.
Kinh Dương Vương xuống Thủy phủ, lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân thay cha trị nước, còn Kinh Dương Vương không biết đi đâu. Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc, Đế Lai nhân thiên hạ vô sự mà đi chu du khắp nơi, đi qua nước Xích Quỷ, thấy Lạc Long Quân đã về Thủy phủ, liền lưu con gái của mình là Âu Cơ ở lại đó.

Lạc Long Quân trở về, thấy Âu Cơ xinh đẹp, liền biến hóa thành chàng trai phong tú mĩ lệ, Âu Cơ ưng theo, Lạc Long Quân liền rước nàng về núi Long Trang. Hai người ở với nhau một năm, sinh ra bọc trăm trứng, sinh ra trăm con trai anh dũng phi thường. Lạc Long Quân ở lâu dưới Thủy phủ, Âu Cơ vốn là người Bắc quốc, nhớ nhà liền gọi Long Quân trở về. Âu Cơ cùng năm mươi con trai ở tại Phong Châu, tự suy tôn người hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương.
Lạc Long Quân và Âu Cơ
3. Sự nghiệp
Con của Lạc Long Quân là Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước ra làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đóng đô ở bộ Văn Lang, Phong Châu. Về bờ cõi, nước đông giáp biển Đông, tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc), bắc đến hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung quốc), nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành.[5]
Hùng Vương sai các em trai phân trị, đặt em thứ làm Tướng võ, Tướng văn. Tướng văn gọi là Lạc Hầu, Tướng võ là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, quan Hữu ty gọi là Bố chính, thần bộc nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền nhau cho đến hiệu là Hùng Vương không đổi.
Lãnh thổ nước Văn Lang được sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam ngày nay.

Hùng Vương chia nước Văn Lang làm 15 bộ Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức, đóng đô ở bộ Văn Lang. Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận.
Bản đồ Nhà nước Văn Lang
4. Di sản
Ngày Giỗ tổ Hùng Vương hay Lễ hội Đền Hùng là một ngày lễ của Việt Nam. Đây là ngày hội truyền thống của Người Việt tưởng nhớ công lao dựng nước của Hùng Vương. Nghi lễ truyền thống được tổ chức hàng năm vào mồng 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ nhưng được dân Việt trong cũng như ngoài nước đều kỷ niệm.

Năm 1954, Hồ Chí Minh có buổi gặp mặt với binh lính các Trung đoàn Thủ Đô, trung đoàn 36, trung đoàn Tu vũ..., ông nói rằng: "Đền Hùng thờ các vua Hùng. Hùng Vương là người sáng lập ra nước ta, là Tổ tiên của dân tộc ta. Ngày xưa, các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước."
Tượng đài Hùng Vương - Công trình của thời đại Hồ Chí Minh tri ân công đức Tổ tiên


Ekaterina II - Nữ hoàng trứ danh của Đế quốc Nga

Thời đại trị vì của bà được gọi là Thời đại Catherine, được xem là thời đại hoàng kim của Đế quốc Nga, đặc biệt là đối với giai cấp quý tộc Nga. Bà tích cực hỗ trợ cho ý tưởng Thời kỳ Khai sáng, tạo nên giai đoạn Chủ nghĩa khai sáng ở Nga.

1. Tiểu sử    
Ekaterina II, Yekaterina Alexeyevna hoặc còn gọi là Catherine Đại đế, là Nữ hoàng trứ danh và cũng là Nữ hoàng trị vì lâu dài nhất của Đế quốc Nga, cai trị từ 28 tháng 6 năm 1762 cho tới khi qua đời 1796 (34 năm). Có thể nói bà là hiện thân của chế độ quân chủ chuyên chế Nga hoàng, tuy là người Phổ, sinh tại Stettin ở Phổ với tên gốc là Sophie Friederike Auguste von Anhalt-Zerbst-Dornburg nhưng bà có đóng góp to lớn trong việc đưa Đế quốc Nga thực sự trở thành một cường quốc tại châu Âu vào thế kỷ 18.
Catherine Đại đế
2. Gia đình                                                                                        
Nữ hoàng có tên khai sinh là Sophie Friederike Auguste von Anhalt-Zerbst-Dornburg, xuất thân từ một gia đình quý tộc Phổ. Thân phụ là Christian August, Vương công xứ Anhalt-Zerbst. Ông phục vụ triều đình Phổ và được phái làm Toàn quyền xứ Stettin (nay là Szczecin, Ba Lan). Sophie chào đời tại Stettin vào ngày 21 tháng 4 năm 1729. Bởi những toan tính ngoại giao chiến lược, khi mới 14 tuổi, Sophie đã bị sắp đặt sẽ cưới Thái tử của nước Nga. Năm 1744, Sophie tới Sankt Peterburg. Cùng năm, bà cải đạo sang Chính Thống giáo Nga. Với tôn giáo mới, bà có tên mới là Ekaterina.
Năm 1761, Nữ hoàng Elizaveta qua đời. Pyotr III lên kế ngôi, còn Ekaterina trở thành Hoàng hậu nước Nga. Pyotr III nguyên là Hoàng tử Karl Peter Ulrich, con trai của Công tước người Đức Charles Frederick và Anna Petrovna (con gái đầu của Pyotr Đại đế và Nữ hoàng Ekaterina I). Từ nhỏ đến năm 14 tuổi, Karl sống trong Hoàng cung nước Phổ dưới triều vua Friedrich II Đại Đế. Năm 1742 được Nữ hoàng Elizaveta đưa trở về Nga, nhưng không thích cuộc sống nước Nga, khinh bỉ mọi thứ của nước Nga và chỉ tôn thờ nhà vua nước Phổ. Sofie, vợ ông thì ngược lại. Tuy xuất thân là một Quận chúa người Đức bà lại rất quan tâm tới nước Nga, nền văn hóa Nga và phong tục tập quán của nước Nga.
Catherine khi vừa đến Nga (tranh vẽ bởi Louis Caravaque)
3. Sự nghiệp
3.1. Đối nội
Trong những năm đầu trị vì nước Nga, Nữ hoàng Ekaterina II muốn được tôn vinh làm Nữ hoàng khai sáng cho đất nước. Về đối nội, bà lấy chính sách ngu dân để trị nước, trong ý nghĩ luôn khẳng định rằng nô lệ và đầy tớ tồn tại từ thở khai thiên lập địa, song bề ngoài tỏ ra là người chủ trương nâng cao dân trí cho nước nhà. Đó là việc Nữ hoàng mời nhà triết học người Pháp Denis Diderot (1713-1784), người sáng lập Bộ bách khoa toàn thư các ngành khoa học, nghệ thuật và các nghề thủ công sang Sankt-Peterburg để xuất bản cuốn Bách khoa toàn thư; trao đổi thư từ với nhà văn, nhà khai sáng Pháp Voltaire (1694-1778), được nhà triết học này mệnh danh là "Semiramis của phương Bắc". Bà cũng say mê đọc các tác phẩm của Montesquieu (1689-1775)... Ý tưởng khai sáng của các nhà tư tưởng Pháp được Nữ hoàng lý giải theo cách riêng của mình, lại cố tìm trong các tác phẩm của họ những điều có thể biện minh cho chế độ chuyên chế và chế độ nông nô đang tồn tại ở nước Nga bấy giờ.
Ekaterina II công khai thi hành chính sách củng cổ trật tự nhà nước phong kiến. Các tạp chí của nhà khai sáng Nga Nikolay Ivanovich Novikov (1744-1818) bị cấm vĩnh viễn năm 1773. Mùa thu năm đó, Diderot đến kinh đô Sankt-Peterburg cũng không thỏa thuận được với Nữ hoàng về việc xuất bản bộ Bách khoa toàn thư. 
Năm 1789 cuộc Đại cách mạng Pháp nổ ra, và vua Louis XVI bị chém đầu năm 1793. Pháp được công bố là nước cộng hòa, chế độ phong kiến sụp đổ. Ảnh hưởng của cuộc Đại cách mạng Pháp như một làn gió tràn vào nước Nga im lìm sau khi nghĩa quân Pugatsov bị đàn áp. Viên sĩ quan S.N. Glinka dịch bài ca cách mạng La Marseillaise ra tiếng Nga. Nhà văn Ia. B. Kniazhnin viết vở bi kịch Vadim Novgrodski kêu gọi lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế và thiết lập nền cộng hòa. Là người kinh bang kế thế nhưng lúc này Ekaterina II cảm thấy lo sợ trước nguy cơ nổi loạn. Với bên ngoài, Ekaterina II kêu gọi các vua chúa châu Âu ủng hộ để giải phóng nước Pháp thoát khỏi "những tên cướp" và khôi phục chế độ quân chủ; bên trong thì ra sức đàn áp hòng dập tắt mầm móng khởi nghĩa: giam cầm Novikov ở pháo đài Shlisselburgskaia còn nhà văn Kniazhnin bị bỏ tù và mất trong ngục năm 1790.
Ekaterina II trong trang phục sĩ quan
3.2. Đối ngoại
Nếu trong lĩnh vực đối nội, Ekaterina không hoàn toàn thực hiện được những mong muốn của mình, thì trong lĩnh vực đối ngoại bà đã làm được nhiều thành tích hơn. Những sự thành công này một phần nhờ vào tài năng và sự lãnh đạo của Ekaterina, một phần cũng nhờ vào việc Ekaterina đã tập hợp được những cận thần xuất sắc và tài ba.[8] Đế quốc Nga dưới thời Ekatêrina II đã thực hiện nhiều hoạt động bành trướng lãnh thổ và thôn tính được các khu vực Bắc ven biển Đen, Krym, Bắc Kavkaz, vùng lãnh thổ phía Tây UkrainaBạch NgaLitva với tổng diện tích lên tới 518 nghìn cây số vuông (20 vạn dặm vuông).
Rõ ràng việc củng cố chế độ quân chủ chuyên chế là quốc sách đối nội đầu tiên của Ekaterina II. Trong chính sách bang giao với các nước châu Âu, Ekaterina II cũng đặt mục đích củng cố Đế quốc Nga trên vũ đài chính trị châu lục này, nhất là trong tình hình các cường quốc châu Âu có thuộc địa ở Nam Á và Đông Nam Á đang phát huy ảnh hưởng của mình, và Ekaterina II và triều đình Nga cảm thấy lo ngại trước tình thế lúc bấy giờ đối với nước Nga chưa có hải quân ở Kamchatka và cảng trên bờ biển Okhotsk Thái Bình Dương. Nhìn chung tất cả những chính sách đối ngoại của Ekaterina hoàn toàn nhằm mục đích phục vụ cho cái mà bà coi là quyền lợi của nước Nga, và gốc tích dân tộc Đức dường không có ảnh hưởng gì đến quyết sách của nữ Nga hoàng[9].
Từ sau khi hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Mông Cổ, nước Nga phải đối phó với ba đối thủ chính trên lĩnh vực đối ngoại: đế quốc Ottoman, Vương quốc Ba Lan và Vương quốc Thụy Điển. Thụy Điển đã suy yếu sau khi bị Pyotr I đánh bại trong cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm và không còn là vật cản trên con đường bành trướng của Nga nữa. Ba Lan cũng bị những mâu thuẫn nội bộ xâu xé và hoàn toàn nằm dưới sự bảo hộ của Nga từ thời Pyotr I. Chính sách của Nga đối với Ba Lan là duy trì một quốc gia Ba Lan nguyên vẹn nằm dưới tầm ảnh hưởng của Nga, mưu dùng Ba Lan làm một nước đệm ngăn cách Nga với các cường quốc châu Âu. Tuy nhiên, đổi lại Nga phải chấp nhận từ bỏ việc bành trướng sang phía Tây, điều mà Đại đế Ekaterina II ít mong muốn nhất.
Tranh vẽ Nữ hoàng Catherine vào năm 1770
4. Đánh giá
Nữ hoàng Ekaterina II bị chỉ trích là rất phóng đãng trong cuộc sống riêng tư. Thậm chí, các nhà cách mạng Jacobin đã gọi bà là "Hoàng hậu Messalina của phương Bắc", ví bà với người vợ khét tiếng dâm đãng của Hoàng đế Claudius vào thời La Mã cổ đại. Quả thực từ khi lấy chồng năm 15 tuổi cho đến lúc qua đời ở tuổi 67, Ekaterina có rất nhiều người tình, từ những đại quý tộc tài năng quyền cao chức trọng như Công tước Saltykov, Tư lệnh Grigori Ooclop, Phó vương Krym Patyómkin cho đến những kẻ bất tài và có cuộc sống riêng tư rất đáng ngờ như Zavadovski (một cậu tình nhân rất trẻ), ZorickMamonovYermolofArkarov (một tên gián điệp), Landskov (một họa sĩ), Công tước Platon Alexandrovich Zubov (trẻ hơn bà tới gần 40 tuổi)…
Nữ hoàng Ekaterina II là hiện thân của đế quốc Nga quân chủ chuyên chế. Nhưng bên cạnh đó, hơn 30 năm trị vì của bà đã đưa Đế quốc Nga tiến lên một bước để trở thành cường quốc thực sự sánh vai với các cường quốc khác ở châu Âu cuối thế kỷ 18.

Là nhà hoạt động nhà nước cơ mưu, Ekaterina II biết nhìn nhận nước Nga trong mối tương quan ở khu vực châu Âu và toàn cầu. Bà là một trong những vị Quân vương vĩ đại nhất và thành công nhất của châu Âu vào thế kỷ XVIII. Nhưng mặt khác, xét trên bình diện phản tiến bộ, Ekaterina đã lợi dụng trí tuệ và nền văn minh thế kỷ Khai sáng ở Tây Âu để trị quốc, trấn áp những phong trào quần chúng và khởi nghĩa nông dân, bóp nghẹt các lực lượng tri thức chủ trương lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế theo gương Cách mạng tư sản Pháp năm 1789.
Tranh vẽ Catherine năm 1787 (bởi Mikhail Shibanov)

Pyotr Đại đế: Vị "hoàng đế Caesar" vĩ đại của nước Nga

Ông được đánh giá là một trong những vị hoàng đế kiệt xuất của thế giới, được nhân dân Nga tôn vinh là nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước này (vượt cả Stalin và Lenin). Ít ai biết rằng trong lịch sử nước Nga, có một nhân vật được đánh giá cao hơn cả Lenin và Stalin, ông chính là Pyotr Đại đế, người được so sánh ngang hàng với hoàng đế Julius Caesar nhờ những cải cách kiệt xuất xuyên suốt chiều dài lịch sử của nước này. Có thể nói, để có một nước Nga lớn mạnh như ngày nay, không ai có thể phủ nhận công lao to lớn mà vị hoàng đế này mang lại.

1. Tiểu sử
Pyotr (sinh ngày 10 tháng 6 năm 1672 tại Moskva – mất ngày 8 tháng 2 năm 1725 tại Sankt-Peterburg) là Sa hoàng của nước Nga (cũ) và sau này là Hoàng đế của Đế quốc Nga (từ năm 1721).
Pyotr Đại đế
2. Gia đình
Ông là con vợ sau của Nga hoàng Aleksei I, còn Fyodor là con trai của người Hoàng hậu trước nên đã được lên làm vua ngay ở tuổi 15. Nhưng Fyodor tính tình yếu đuối, nhu nhược không có phẩm chất của một vị Đế vương.
Do đó, hội đồng Boyar Duma của tầng lớp quý tộc Nga đã ủng hộ Pyotr làm vua, nhưng công chúa Sophia (người chị cùng cha khác mẹ của ông) lại không tán thành và tổ chức bạo loạn giành chính quyền, trở thành người có quyền lực nhất lúc bấy giờ.
Từ đó Sophia đồng nắm quyền với em trai yếu đuối Fyodor. Pyotr lúc ấy chỉ hơn 10 tuổi đã rời xa kinh đô Moskva tới nơi thôn dã, ở đây ông lớn lên trong yên bình với những trò chơi đánh trận giả ưa thích cùng bạn bè.
Sau này, ông lập nên Lữ đoàn Preobrazhenskoe với sự tham gia của những người bạn thuở thơ ấu. Ngoài ra, một thương nhân già người Hà Lan tên là Franz Timmerman (sau trở thành cố vấn) đã dạy cho Pyotr số học, hình học, cách tính toán đạn đạo…
Sau đó, Nga hoàng Pyotr học đóng thuyền trên bờ hồ Pleschev. Niềm đam mê với những con thuyền đã giúp ông lên đường học hỏi những tiến bộ từ phương Tây.
Về phần người chị, tuy nắm quyền điều hành nhưng luôn canh cánh mối lo về Pyotr nên luôn tìm cách hãm hại để có thể làm nữ hoàng. Sophia lúc này bị mất uy tín trong khi Pyotr được sự ủng hộ từ quân đội và tầng lớp quý tộc.
Năm 1689, Pyotr lật đổ Sophia và chính thức lên ngôi vua (cũng đồng nắm quyền với Fyodor nhưng thật ra chỉ là hình thức vì quyền lực đều trong tay Pyotr).
Trong hai năm 1693 và 1694, Pyotr đi đến Arkhangelsk để quan sát cách vận hành một bến cảng, tập lái tàu biển. Sau đó, ông đặt mua chiếc tàu đầu tiên và đóng tàu cho Hải quân Nga.
Nhận thấy tầm quan trọng của nền hàng hải, ông càng quyết tâm học hỏi điều hay từ Tây Âu và chú tâm đến việc xây dựng cảng biển.
Năm 1696, Pyotr Đại đế trở thành vị Nga hoàng duy nhất, là nhà cầm quyền tối cao độc nhất của đất nước Nga khi anh trai mình qua đời.
Trong những năm 1697 - 1698, ông đi vòng quanh Tây Âu, học được những điều mới lạ ở đó và truyền bá vào Nga.
Ông tiến hành cải tổ kinh tế, bộ máy chính quyền (thành lập thể chế nghị viện), thành lập Hải quân, giúp nước Nga trở thành một đế quốc hùng cường trên thế giới thời đó.
Nhận thấy hạn chế khi không có biên giới thông ra biển tới các nước Tây Âu, ông đã tiến hành những cuộc chiến với đế quốc Ottoman hùng mạnh bậc nhất.
Nước Nga nghèo nàn và lạc hậu trước thời Pyotr Đại đế
3. Sự nghiệp
Sau khi mở rộng biên giới ra biển, Pyotr Đại đế tiến hành "liên minh chống Thổ" với một số nước Tây Âu nhằm chống lại đế quốc Ottoman và học hỏi từ người Âu.
Ở những nơi mà ông đi qua, ông giao lưu kết bạn với nhiều nhà khoa học, họa sĩ, thợ đóng tàu... Với lòng ham học hỏi ông đã ứng dụng những điều học được để giúp đất nước mình thay đổi.
Ông tiến hành cải tổ toàn diện, đưa nước Nga trở thành thế lực có tầm ảnh hưởng tới chính các quốc gia mà ông đã học hỏi.
Để mở rộng và tăng cường sức mạnh, ông đã tuyên chiến với Thụy Điển. Cuộc chiến kéo dài tới 20 năm với sự tham chiến của nhiều nước Tây Âu.
Sau này, các sử gia gọi đây là "đại chiến Tây Âu". Ban đầu, Pyotr thất trận nhưng điều đó chỉ làm vị vua trẻ nhận ra điểm yếu của mình và nhanh chóng khắc phục, giúp nước Nga đánh bại Thụy Điển.
Vua Thụy Điển là Karl XII sau khi thua trận, đã chạy sang Ottoman và lôi kéo đế quốc này vào cuộc chiến. Năm 1710, Ottoman tuyên chiến với nước Nga Sa hoàng. Chỉ một năm sau, nước Nga thất bại và phải nhượng lại một phần lãnh thổ chiếm được.
Năm 1714, Đại chiến Bắc Âu tái diễn khi Nga và Thụy Điển một lần nữa đối đầu. Dù có sự hậu thuẫn của Anh, Thụy Điển vẫn không thể đánh bại Nga và buộc phải ký hiệp ước cắt nhượng đất.
Trong 21 năm chiến tranh với Thụy Điển, Nga hoàng Pyotr cũng cho sứ giả đến thuyết phục các nước Trung Á, Ấn Độ quy phục.
Trong nước, ông tiến hành cải cách, thay đổi thói quen lạc hậu của người Nga như cắt đi bộ râu dài truyền thống, cấm mặc áo rộng thùng thình.
Những ngành liên quan đến vũ khí như luyện kim, đóng tàu được chú trọng đặc biệt. Pyotr Đại đế áp dụng chính sách bảo hộ quan thuế, đẩy mạnh xuất khẩu.
Ông cho đào kênh và xây dựng bến cảng, chú trọng quân đội, vũ khí, xây dựng trường học, phái du học sinh đi Tây Âu học, cho phép dân thường đi học, dịch sách nước ngoài sang tiếng Nga.
Nhiều thành tựu to lớn đã đạt được dưới thời Pyotr Đại đế như thuyền buồm chạy ngược gió. Ông còn cho xây dựng ở Moskva một y viện ngoại khoa có phòng mổ đầu tiên. Ở tất cả các thành phố đều có nhà thuốc.
Pyotr I cho xây các bảo tàng, xưởng in, thư viện và kịch viện đầu tiên ở Nga. Năm 1703, tờ báo đầu tiên ở Nga được phát hành mang tên Vedomosti; lịch cũ cũng được thay thế theo lịch Âu.
Năm 1721, 30 nhà vẽ bản đồ nhận chỉ thị của hoàng đế để vẽ tấm bản đồ nước Nga. Năm 1724, trước khi qua đời, ông vẫn dốc tâm xây dựng Viện Khoa học Nga.
Về hành chính, ông cho xóa bỏ bộ máy nhà nước cồng kềnh, trọng dụng nhân tài, tổ chức lại bộ máy hành chính và quan lại. Ông ra các điều luật có lợi cho dân thường, phụ nữ, giảm địa vị của tầng lớp quý tộc.
Năm 1725, ông tiến hành xây dựng cung điện Mùa hè Peterhof, được mệnh danh "Versailles của nước Nga".
Pyotr Đại đế xây dựng hải quân Nga đầu tiên
4. Đánh giá
Mùa đông năm 1724, 1 chiến hạm từ Kronshtadt trở về kinh đô Sankt-Peterburg bị mắc cạn ở vịnh Phần Lan, để cứu tàu, ông và đoàn thủy thủ đã nhảy xuống dòng nước lạnh giá.
Về sau, mặc dù cứu được tàu và đoàn thủy thủ trở về an toàn, Pyotr đã bị cảm lạnh, bệnh tình trở nặng nên 1 năm sau ông đã qua đời ở tuổi 53.
Lịch sử đã dành cho Pyotr Đại đế nhiều lời khen ngợi. Có lẽ lời khen ngợi đi đầu là tầm nhìn chiến lược của ông, kế đến là nhận thức và quyết tâm chống lại chính quyền bảo thủ lúc bấy giờ.
Chính ông đã tạo dựng nên hải quân và đội thương thuyền hàng hải từ con số không: không tàu thuyền, không có công nghệ đóng tàu, không có ai biết lái tàu biển.
Cùng với nữ hoàng Ekaterina II, ông là một trong hai nhà lãnh đạo được Thủ tướng Nga Vladimir Vladimirovich Putin đề cao nhất trong lịch sử nước này. Ông được so sánh với hoàng đế La Mã Julius Caesar vì cả 2 đều có những chiến công vĩ đại cho dân tộc mình.

​Ông được tôn vinh là "Hoàng đế phương Đông" hay "Hoàng đế toàn Nga", "Cha của tổ quốc"... người có công đưa nước Nga lạc hậu thành một cường quốc trên thế giới.
Tượng Pyotr Đại đế

Bài viết nổi bật

Lê Lợi - Vị anh hùng giải phóng dân tộc

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ lúc mở đầu (1416) cho tới khi kết thúc thắng lợi (tháng 12-1427), trải qua các giai đoạn phát triển và chiến lượ...

Bài xem nhiều nhất tuần

Bài xem nhiều nhất tháng

Bài xem nhiều nhất năm